KHU CÔNG NGHIỆP TÂN KIM – OSSIF – Xin trân trọng thông báo đến Quý khách hàng, Quý đối tác về việc nghỉ lễ Ngày Quốc khánh Việt Nam 2/9 như sau:
Thời gian nghỉ: Từ thứ SÁU, ngày 01.09.2023 đến hết thứ HAI, ngày 04.09.2023 Thứ BA, ngày 05.9.2019, Công ty làm việc lại bình thường.
Kính chúc Quý khách hàng – Quý đối tác có một kỳ nghỉ lễ thật nhiều niềm vui bên gia đình và người thân.
KHU CÔNG NGHIỆP TÂN KIM – OSSIF.
Bất động sản công nghiệp đón ‘sóng’ dịch chuyển từ Trung Quốc
Làn sóng dịch chuyển, mở rộng sản xuất của nhà đầu tư nước ngoài mở ra cơ hội lớn cho bất động sản công nghiệp Việt Nam. Sau sự dịch chuyển nhà máy từ Trung Quốc sang Việt Nam của Hanwha, Yokowo, Shuafu trong quý II/2019, dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam đã chậm lại những tháng cuối năm 2019 do lo ngại ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ – Trung.
Tuy nhiên, Covid-19 bùng phát từ đầu năm 2020 – gây ra gián đoạn chuỗi cung ứng tại Trung Quốc – lại khiến các nhà đầu tư quan tâm nhiều hơn tới kế hoạch mở rộng, đặt chi nhánh hoặc cơ sở sản xuất ở Thái Lan, Việt Nam, Indonesia hoặc Myanmar. Theo TS. Sử Văn Khương – Giám đốc cấp cao Savills Việt Nam, việc chuyển một phần cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc như một phương pháp các công ty đa quốc gia bảo hiểm rủi ro.
Chuyên gia này cho biết, Việt Nam luôn là điểm đến hấp dẫn với các doanh nghiệp nước ngoài với lực lượng lao động trẻ và có tính cơ động cao hơn các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á, chi phí lao động thấp. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng – cảng biển, hệ thống giao thông đường bộ, đường thuỷ, hệ thống kho bãi – tương đối tốt, tình hình chính trị ổn định và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới cũng là điểm cộng cho Việt Nam.
Khu công nghiệp Long Hậu. Ảnh: Long Hậu.
Một lợi thế khác của Việt Nam là gần Trung Quốc về mặt địa lý – giúp các nhà đầu tư dễ dàng bổ sung cơ sở sản xuất – nhưng vẫn không cần từ bỏ thị trường 1,4 tỷ dân này.
Ngoài ra, theo ông Khương, doanh nghiệp nước ngoài dịch chuyển cơ sở sản xuất sang Việt Nam sẽ có thêm cơ hội đầu tư tài chính, du lịch, bất động sản và dịch vụ, trong khi ở Thái Lan, Indonesia hay Hong Kong, cơ hội đầu tư ngày càng hạn chế hơn.
Một báo cáo do Công ty Chứng khoán VNDirect công bố cuối tháng 4 cũng đề cập việc, Google và Microsoft đang chuyển một số dây chuyền sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam, Thái Lan. Hai tập đoàn này dự kiến bán điện thoại Pixel4A, Pixel5 và máy tính Surface, tại Việt Nam trong quý II.
Theo đơn vị này, bên cạnh lợi thế nhân công, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam theo quy định đang ở mức 20% – thuộc nhóm thấp nhất Đông Nam Á, chỉ sau Singapore. Ngoài ra, các công ty hoạt động trong các khu công nghiệp cũng được hưởng nhiều ưu đãi như miễn thị thực, miễn thuế 2-4 năm, giảm thuế 3-15 năm và miễn thuế nhập khẩu.
Dự báo triển vọng thị trường bất động sản công nghiệp ở phía Bắc, VNDirect cho biết, các khu công nghiệp tại Hải Dương, Bắc Giang sẽ phát triển nhờ vào đường cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn, giúp thời gian di chuyển từ Hà Nội đến biên giới khu vực Lạng Sơn giảm 1 giờ so với trước. Ở miền Nam, Bà Rịa – Vũng Tàu sẽ trở thành điểm sáng khi hệ thống đường cao tốc kết nối cảng nước sâu Cái Mép – Thị Vải với TP HCM, Đồng Nai và Bình Dương được quan tâm phát triển.
Theo đơn vị này, nhóm doanh nghiệp gồm: Sonadezi Châu Đức, Tổng Công ty Viglacera, Cao su Phước Hòa với diện tích đất sẵn sàng cho thuê trên dưới 1.000 ha sẽ có nhiều cơ hội tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận khi nguồn cung đất giai đoạn 2020-2021 vẫn hạn chế, số lượng yêu cầu thuê đất tăng nhất. Trong đó, Tổng công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc sở hữu khu công nghiệp Quang Châu nằm trong vùng công nghệ cao có thể hưởng lợi từ làn sóng chuyển dịch nhà máy của các công ty công nghệ cao như Foxconn và LG.
Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC) nhận định, bất động sản công nghiệp sẽ tăng trưởng từ năm 2021 với động lực các hiệp định thương mại tự do (FTA). Những cam kết về hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh theo Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu – Việt Nam (EVFTA) sẽ tạo ra sức hấp dẫn lớn với các nhà đầu tư châu Âu.
Tiếp đó, Covid-19 có thể khiến các doanh nghiệp thúc đẩy kế hoạch rời Trung Quốc sớm hơn dự kiến nhằm ổn định hoạt động và bảo vệ nhân viên của mình.
Chưa kể, các dự án đầu tư công trong nước đang được thúc đẩy, cơ sở hạ tầng dần cải thiện sẽ thu hút thêm nhiều nhà đầu tư, giúp các khu công nghiệp được hưởng lợi trong dài hạn.
TS. Sử Ngọc Khương nhận định, quá trình dịch chuyển các ngành sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam sẽ diễn ra sớm nhất từ năm 2021. Theo ông, đây là lúc doanh nghiệp cần chuẩn bị tốt hệ thống kho bãi, phục vụ hoạt động lưu trữ, giao – nhận hàng hoá trong chuỗi cung ứng.
Tuy nhiên, Việt Nam sẽ phải cạnh tranh nếu muốn thu hút đầu tư. Ông Phạm Sỹ Thành – Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Chiến lược Mekong – Trung Quốc (MCSS) thuộc Học viện Nông nghiệp Việt Nam – cho rằng Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với Indodesia, Malaysia và Thái Lan về sự hấp dẫn của môi trường đầu tư và chất lượng thể chế.
“Điều này không dễ dàng, bởi việc thu hút được các doanh nghiệp FDI chất lượng cao vào các khu công nghiệp gặp nhiều khó khăn mang tính dài hạn mà Việt Nam chưa xử lý được”, ông Thành nhận xét.
Ngoài ra, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp ở Việt Nam hiện vẫn thiếu đồng bộ, đặc biệt ở phía Nam – nơi nguồn cung bất động sản công nghiệp tăng chậm – do nhà đầu tư bất động sản không muốn mở rộng quỹ đất quá nhanh – khiến giá bất động sản công nghiệp tăng cao.
Tiếp đó, Việt Nam hiện thiếu lao động lành nghề, có kỹ năng chuyên sâu. Nhưng kinh tế kĩ thuật số – dựa trên sự thay đổi công nghệ nhanh chóng ở các nước phát triển và các nước khác trong khu vực – sẽ làm giảm sự hấp dẫn của một quốc gia vốn dựa vào lao động giá rẻ, tài nguyên nhiều, ưu đãi giá điện, nước để thu hút nguồn vốn nước ngoài.
Trước đó, báo cáo thị trường bất động sản quý I của JLL Việt Nam cho thấy, nhu cầu thuê đất khu công nghiệp trong những tháng đầu năm tại Việt Nam vẫn ở mức cao, dù thị trường chịu nhiều ảnh hưởng của dịch.
Giá đất trung bình tại khu vực phía Bắc tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2019, đạt 99 USD một m2 cho mỗi chu kỳ thuê. Còn tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp tính đến hết tháng 3 đạt mức 72%. Tại khu vực phía Nam, giá đất trung bình thậm chí đã tăng tới 12,2%, đạt 101 USD một m2 cho mỗi chu kỳ thuê khi số lượng yêu cầu thuê đất tăng cao.
Nhờ vậy, nhiều doanh nghiệp bất động sản công nghiệp đã công bố kết quả kinh doanh quý I với mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước.
Công ty Sonadezi Châu Đức ghi nhận doanh thu 121 tỷ đồng, tăng trưởng gấp 2,5 lần cùng kỳ năm 2019. Trong đó, doanh thu từ hoạt động cho thuê đất khu công nghiệp tăng trưởng gấp 3,5 lần, đạt 103 tỷ đồng.
Công ty cổ phần Long Hậu cũng kết thúc quý I với doanh thu thuần đạt 206 tỷ đồng, tăng 19,7% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu cho thuê đất đã phát triển cơ sở hạ tầng và xưởng xây sẵn theo yêu cầu đạt gần 159 tỷ đồng – tăng 21% so với cùng kỳ – đóng góp 77% tổng doanh thu. Còn doanh thu từ mảng cho thuê nhà xưởng, khu lưu trú cũng tăng trưởng hơn 22%.
Tương tự, doanh thu thuần của Tổng công ty Phát triển đô thị Kinh Bắc đạt gần 556 tỷ đồng, tăng 11% so với cùng kỳ, trong đó, 84% là doanh thu từ hoạt động cho thuê đất và chuyển nhượng bất động sản.
Theo VNExpress
Giá thuê bất động sản công nghiệp leo thang
Đất khu công nghiệp tại TP HCM gần 183 USD (khoảng 4,25 triệu đồng) mỗi m2 trên chu kỳ thuê trong khi Long An, Đồng Nai cũng tăng cao. Theo báo cáo bất động sản công nghiệp các tỉnh phía Nam của Jones Lang LaSalle (JLL) Việt Nam, trong quý II/2020, giá thuê đất khu công nghiệp tại TP HCM, Long An, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu đều trên đà tăng cao.
TP HCM dẫn đầu với giá thuê đất khu công nghiệp đạt 182,8 USD (tương đương 4,25 triệu đồng) mỗi m2 trên chu kỳ thuê. Theo sau là Bình Dương, Đồng Nai, Long An lần lượt ghi nhận cột giá 88 USD, 98 USD và 133 USD mỗi m2 trên chu kỳ thuê (lần lượt ứng với 2,04 triệu, 2,28 triệu và 3,1 triệu đồng). Trong khi đó, giá đất và nhà xưởng tại Bà Rịa – Vũng Tàu cũng bám sát các thủ phủ khu công nghiệp lân cận, lên mốc 80 USD (khoảng 1,74 triệu đồng) mỗi m2 trên chu kỳ thuê.
Nếu xét toàn cụm các tỉnh phía Nam, trong quý II/2020, giá thuê đất công nghiệp đạt mức trung bình 106 USD mỗi m2 trên chu kỳ thuê, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Giá thuê nhà xưởng xây sẵn ổn định hơn đất, duy trì ở mức 3,5-5 USD mỗi m2 một tháng, do hợp đồng chỉ ngắn hạn 3-5 năm và khách thuê cũng dễ bị tác động của đại dịch.
Diễn biến thị trường cho thấy, dù Covid-19 gây ra những khó khăn tạm thời cho các kế hoạch sắp tới của doanh nghiệp, bất động sản công nghiệp ở Việt Nam vẫn thu hút khách thuê.
Khu công nghiệp Long Hậu. Ảnh: Long Hậu.
Tổng diện tích đất cho thuê của miền Nam đạt 25.045 ha vào quý II/2020. Một vài quỹ đất cho thuê còn lại ở một số khu công nghiệp hiện hữu tại TP HCM vẫn bị đình trệ do khó khăn trong việc bồi thường, giải phóng mặt bằng và gần đây là tác động của Covid-19, khiến nguồn cung này không kịp đưa ra thị trường. Việc khan hiếm nguồn cung càng trở nên rõ rệt hơn khi các khu công nghiệp hiện hữu đang dần được lấp đầy nhanh chóng và quỹ đất mới bị trì hoãn.
Trong nửa đầu năm 2020, thị trường tài sản công nghiệp nhận được sự quan tâm mạnh mẽ từ cả nhà đầu tư và nhà sản xuất. Đến cuối tháng 6, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên mở cửa hoàn toàn nền kinh tế trong nước, cho thấy đây là điểm đến an toàn và tiềm năng cho việc di dời sản xuất.
Do đại dịch vẫn diễn ra trong khu vực và toàn cầu, các giao dịch thành công chủ yếu là từ các nhà đầu tư trong nước hoặc đã được thực hiện trước khi dịch công bố và bùng phát. Tỷ lệ lấp đầy trung bình toàn cụm công nghiệp phía Nam đạt 84% tính đến cuối quý II.
JLL đánh giá, khi đại dịch vẫn còn là mối đe dọa, việc đàm phán cho thuê và các yêu cầu mới sẽ tiếp tục đình trệ cho đến hết năm 2020. Thị trường dự kiến sẽ nhanh chóng hồi phục ngay sau khi tình hình được kiểm soát. Với thành công của công tác phòng chống Covid-19, nền tảng phát triển công nghiệp mạnh cùng với xu hướng tìm nguồn cung ứng đa dạng đang diễn ra hứa hẹn sẽ giúp đưa Việt Nam có lợi thế cạnh tranh tốt hơn so với các nước khác.
Theo Vnexpress
Cuộc chạy đua bất động sản công nghiệp: Không dễ để “gà đẻ trứng vàng”
Bất động sản (BĐS) công nghiệp Việt Nam đang được đánh giá là một “chốn đậu” lý tưởng cho các “đại bàng” trong làn sóng dịch chuyển FDI ra khỏi Trung Quốc. Với thực tế hiện nay, liệu Việt Nam có tận dụng được hay bỏ lỡ cơ hội vàng này?
Nhận diện cơ hội
Xu hướng chuyển nhà máy sản xuất khỏi Trung Quốc vì chi phí lao động tăng và ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ – Trung đã nhen nhóm trong vài năm trở lại đây. Sức ép từ đại dịch đã đẩy nhanh hơn quá trình này khi các quốc gia và nhiều tập đoàn toàn cầu nhìn nhận sự phụ thuộc thái quá vào Trung Quốc để lại hậu quả lớn như thế nào trong dịch Covid-19 vừa qua, nhất là thiết bị y tế, công nghệ và các ngành sản xuất công nghiệp nặng.
“Dịch Covid-19 có thể là chất xúc tác mới thúc đẩy quá trình dịch chuyển sản xuất – vốn đã được đẩy nhanh vì căng thẳng thương mại vào năm ngoái – diễn ra nhanh hơn”, JLL Việt Nam nhận định.
Làn sóng dịch chuyển, mở rộng sản xuất của nhà đầu tư nước ngoài mở ra cơ hội lớn cho bất động sản công nghiệp Việt Nam. Bởi bên cạnh lợi thế nhân công (trẻ, dồi dào, chi phí thấp), thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam theo quy định đang ở mức 20% – thuộc nhóm thấp nhất Đông Nam Á, chỉ sau Singapore – rất hấp dẫn các nhà đầu tư. Các công ty hoạt động trong các khu công nghiệp cũng được hưởng nhiều ưu đãi như miễn thị thực, miễn thuế 2 – 4 năm, giảm thuế 3 – 15 năm và miễn thuế nhập khẩu.
Bên cạnh đó, một lợi thế khác của Việt Nam là gần Trung Quốc về mặt địa lý – giúp các nhà đầu tư dễ dàng bổ sung cơ sở sản xuất – nhưng không cần từ bỏ thị trường 1,4 tỷ dân này.
Ngoài ra, theo nhận định của Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC), bất động sản công nghiệp sẽ tăng trưởng mạnh từ năm 2021 với động lực các hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là EVFTA. Những cam kết về hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh theo Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu – Việt Nam (EVFTA) sẽ tạo ra sức hấp dẫn lớn với các nhà đầu tư châu Âu đối với thị trường Việt Nam.
Đặc biệt, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có thể chế chính trị ổn định trên thế giới tại thời điểm hiện tại, đồng thời là quốc gia hiếm hoi trên thế giới thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh Covid-19. Các nhà đầu tư nước ngoài đang coi đây là điểm đến lý tưởng để có thể xúc tiến nhanh việc tìm kiếm cơ hội tại các khu công nghiệp, nhà máy, trung tâm chế xuất…
Trong bối cảnh đó, thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam trở nên sôi động liên tục từ đầu năm 2020 đến nay với sự gia tăng yêu cầu thuê đất và nhà máy từ cả khách thuê hiện hữu lẫn khách thuê mới.
Một báo cáo mới được công bố bởi CBRE cho thấy, giá thuê và tỷ lệ lấp đầy của các khu công nghiệp tại các thành phố và tỉnh sản xuất lớn của Việt Nam tăng cao trong bối cảnh nguồn cung đất công nghiệp bị hạn chế.
Tại miền Bắc, giá chào thuê từ 65 đến 260 USD/m2/chu kỳ thuê. Tại các vùng công nghiệp miền Nam, giá chào thuê rơi vào khoảng 80 – 300 USD/m2/chu kỳ thuê.
Bên cạnh đất công nghiệp cho thuê, thị trường cũng ghi nhận tăng trưởng tốt ở phân khúc nhà xưởng và nhà kho xây sẵn. Nguồn cung nhà xưởng xây sẵn tiếp tục tăng trưởng ổn định ở cả hai khu vực công nghiệp chính ở miền Nam và miền Bắc.
Đó là những yếu tố đầy triển vọng cho phân khúc bất động sản công nghiệp trong thời gian tới. Nhưng các chuyên gia cũng đặt ra câu hỏi, liệu chúng ta có đang kỳ vọng quá cao khi thực tế phát triển bất động sản công nghiệp thời gian qua còn khá nhiều bất cập và các nút thắt chưa được tháo gỡ. Bên cạnh đó, còn nhiều yếu tố chưa thực sự sẵn sàng nên việc chậm chân hay bỏ lỡ cơ hội là không thể phủ nhận.
Đừng thấy “người ăn khoai cũng vác mai đi đào”
Nhiều năm về trước, nước ta đã từng có cuộc chạy đua ồ ạt phát triển khu công nghiệp ở hầu hết các địa phương. Tuy nhiên, thực tế nhiều khu công nghiệp hoạt động không hiệu quả, tỷ lệ lấp đầy thấp, nhiều nơi bỏ hoang, không thể thu hút được dự án đầu tư, gây lãng phí tài nguyên đất đai.
Theo quy hoạch đến năm 2020, tỉnh Bình Thuận có 35 Cụm công nghiệp với tổng diện tích hơn 1.162ha. Hiện đã có 27 cụm công nghiệp thành lập nhưng chỉ thu hút được 170 dự án trên tổng diện tích 265ha, chiếm 1/4 diện tích các cụm công nghiệp trong tỉnh. Riêng năm 2019, Bình Thuận chỉ thu hút được 1 dự án sản xuất giày dép vào hoạt động tại cụm công nghiệp.
Cả tỉnh Bình Thuận có 22 cụm công nghiệp, phần lớn mới đầu tư các tuyến giao thông chính hoặc san lấp mặt bằng. Chỉ có 4 cụm công nghiệp trên toàn tỉnh được đầu tư cơ bản về hạ tầng.
Tỉnh Hà Nam có 8 KCN thì đa phần bỏ hoang, điển hình như KCN Hòa Mạc, Châu Sơn, Đồng Văn 2… Vĩnh Phúc cũng là tỉnh tập trung nhiều KCN bỏ hoang như KCN Bá Thiện 1, Chấn Hưng, Khai Quang…
Nguyên nhân là do áp lực các địa phương mong muốn sớm có khu công nghiệp bằng mọi giá nên tính hợp lý và khoa học của quy hoạch tổng thể khu công nghiệp còn yếu, chưa dựa trên các phân tích, đánh giá một cách tổng thể về tiềm năng, lợi thế, khả năng huy động các nguồn lực tổng hợp của địa phương…
Bên cạnh đó, phần lớn những khu công nghiệp bỏ hoang hiện nay đều rơi vào những tỉnh kinh tế khó khăn, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phát triển thiếu đồng bộ.
Chuyên gia kinh tế, TS. Võ Trí Thành cho biết, ở nhóm bất động sản công nghiệp, hiện cả nước có 550 khu công nghiệp, trong đó có 326 khu đang hoạt động, tỷ lệ lấp đầy là khoảng 60%. Như vậy có tình trạng “chỗ nào thừa vẫn thừa mà chỗ nào thiếu vẫn thiếu”.
Phát biểu tại một hội thảo gần đây, bà Hà Thu Thanh, Chủ tịch Deloitte Việt Nam cho rằng, cùng với các phân khúc như nhà ở, văn phòng, bất động sản công nghiệp sẽ là điểm sáng vì xu hướng dịch chuyển sản xuất, tái cấu trúc chuỗi cung ứng, chiến lược “Trung Quốc +1″. Tuy nhiên theo bà Thanh, nếu như đầu tư bất động sản công nghiệp trước đây hướng đến ưu đãi, thuế, giảm giá đất, thì hiện nay, bất động sản công nghiệp cần sự kết nối hạ tầng một cách đầy đủ, bao gồm sự phát triển đồng bộ từ logistics, năng suất lao động, công nghiệp phụ trợ. “Nhưng hiện Việt Nam đang có bao nhiêu phần?”, bà Hà Thu Thanh đặt vấn đề.
Trên thực tế, không phải bất kỳ khu công nghiệp nào cũng nhận được sự quan tâm của đông đảo các nhà sản xuất, do lựa chọn hàng đầu để xây dựng nhà xưởng sản xuất của các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài chính là các khu công nghiệp đã được đầu tư đồng bộ về mặt hạ tầng. Nhưng hiện nhiều khu công nghiệp tại Việt Nam chỉ đơn thuần là san lấp mặt bằng và chờ nhà đầu tư nước ngoài tới.
“Nếu chủ đầu tư dự án khu công nghiệp không có quy hoạch tốt, không có kết nối đồng bộ, không thực hiện đủ các thủ tục về pháp lý thì việc hưởng lợi từ những ưu đãi khác sẽ không có ý nghĩa gì đối với nhà đầu tư nước ngoài”, bà Bùi Nguyễn Huyền Trang – chuyên gia đơn vị nghiên cứu thị trường Jones Lang Lasalle Việt Nam cho biết.
Ngoài những ưu đãi chung của Nhà nước cho từng khu công nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài còn quan tâm tới mạng lưới các nhà cung cấp nguyên liệu, vật tư phụ trợ có sẵn sàng cho hoạt động của nhà máy tại khu công nghiệp hay không. Đồng thời, họ cũng quan tâm tới cả thủ tục cấp phép đầu tư tại khu công nghiệp có thông thoáng không, thời gian cấp phép có đáp ứng được đủ tiến độ triển khai dự án hay không.
Việc thiếu nguồn nhân lực tạm thời và hệ thống cơ sở hạ tầng, pháp lý còn hạn chế sẽ là những rào cản của Việt Nam, ảnh hưởng đến triển vọng tăng tưởng của thị trường bất động sản công nghiệp trong ngắn hạn.
Theo nhận định của các chuyên gia, bất động sản công nghiệp trong giai đoạn này có thể xem là cơ hội vàng nhưng không phải lúc nào cũng dễ sinh lời cho doanh nghiệp, đặc biệt khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia, mức độ cạnh tranh càng lớn.
“Nhiều người nói bất động sản công nghiệp sẽ là xu thế, được hưởng lợi. Nhưng nhà nhà đua nhau làm như kiểu “trăm hoa đua nở” là rất nguy hiểm. Bất động sản công nghiệp không đơn thuần chỉ là đơn thuần mỗi nhà xưởng, mà phải có một quần thể, những hạ tầng đi kèm như nhà ở cho công nhân…”, ông Trịnh Văn Quyết, Chủ tịch Tập đoàn FLC khẳng định và cho rằng, nếu đầu tư theo xu hướng đám đông, theo dư luận thì rất dễ nằm trong số phải “giải cứu”.
Theo đó, các chuyên gia cho rằng, việc phát triển bất động sản công nghiệp ở thời điểm hiện tại rất cần thiết nhưng cần bình tĩnh hơn. Quan trọng nhất là các địa phương, các doanh nghiệp đầu tư khu công nghiệp cần phải thay đổi tư duy, có tầm nhìn dài hạn để có sự chuẩn bị sẵn sàng hơn mới đón đầu được làn sóng dịch chuyển FDI vào phân khúc này. Trên tất cả cần phải có quy hoạch tổng thể, đồng bộ, lựa chọn vị trí phù hợp, không phát triển một cách tràn lan.
“Việc khu công nghiệp mọc lên ồ ạt theo “phong trào” có thể gây nhiều hệ lụy nghiêm trọng, tác động xấu đến kinh tế – xã hội, ảnh hưởng môi trường. Trong bối cảnh hiện nay, để đón làn sóng đầu tư mới, rất cần một bàn tay “nhạc trưởng” định hướng phát triển khu công nghiệp bền vững theo chiều sâu, đạt hiệu quả kinh tế và thân thiện môi trường”, một chuyên gia nhận định.
Các chuyên gia cũng đưa ra lời khuyên, doanh nghiệp ngoài ngành cần phải xem xét lại một cách thận trọng kế hoạch “tiến quân” vào thị trường bất động sản công nghiệp khi dịch bệnh Covid-19 ở nhiều cường quốc đang có nguy cơ bùng phát lại, tâm lý nhà đầu tư nước ngoài còn dè dặt.
Sự đổ vỡ và một cuộc khủng hoảng thừa trong tương lai gần rất hiện hữu nếu các tập đoàn toàn cầu không lựa chọn Việt Nam, khi thực tế còn rất nhiều điểm đến khác cho họ lựa chọn. Một lần nữa nhấn mạnh lại, miếng bánh FDI từ làn sóng dịch chuyển nhà máy này không dành riêng cho Việt Nam, dù thực tế Việt Nam có rất nhiều lợi thế.
Theo Reatimes.vn
Mô hình cho thuê mái nhà xưởng làm điện mặt trời
Cho thuê phần mái nhàn rỗi của nhà xưởng để làm điện mặt trời theo mô hình của DAT Solar, chủ doanh nghiệp có thể thu khoảng 300 triệu mỗi năm.
Những tiến bộ về khoa học, công nghệ trong khoảng 10 năm trở lại đây đã giúp chi phí đầu tư vào hệ thống điện mặt trời giảm sâu. Vừa qua, chính sách giá mua điện mặt trời trên mái nhà FIT2 đã được Chính phủ thông qua với mức 1.943 đồng/kWh (tương đương 8,38 US cents/kWh). Đứng trước những cơ hội này, nhiều quỹ đầu tư tài chính đã tham gia lĩnh vực điện mặt trời với hàng loạt giải pháp tài chính, giúp doanh nghiệp có mái nhà xưởng khoảng 6.000 m2 có thể thu được lợi nhuận hàng trăm triệu mỗi năm từ việc cho thuê mái nhàn rỗi.
Với giải pháp này, đối tác đầu tư tài chính sẽ chịu trách nhiệm về chi phí lắp hệ thống điện mặt trời trên mái nhà xưởng của doanh nghiệp. Trong khi đó, DAT Solar sẽ đảm nhiệm vai trò cung cấp giải pháp trọn gói từ khảo sát, thiết kế, thi công, thực hiện thủ tục đấu lưới EVN và bảo dưỡng nhằm giúp hệ thống vận hành ổn định và đạt hiệu suất cao.
Về lợi ích tài chính, doanh nghiệp sẽ được đối tác đầu tư tài chính của DAT Solar thanh toán tiền thuê mái nhà hàng tháng theo tỷ lệ phần trăm doanh thu do việc bán toàn bộ lượng điện phát ra từ hệ thống điện mặt trời hoặc hưởng tiền thuê cố định trên m2. Cụ thể, với mặt bằng mái từ 6.000 m2, doanh nghiệp có thể được hưởng khoảng 10% doanh thu, gần 300 triệu mỗi năm.
Ngoài ra, sau 20 năm, hệ thống điện mặt trời sẽ được bàn giao cho doanh nghiệp với mức giá tượng trưng 1 USD, tiếp tục hưởng lợi đến 30 năm.
Mô hình cho thuê mái.
Về lợi ích phi tài chính, mái nhà xưởng lắp đặt pin mặt trời sẽ giảm nhiệt độ bên dưới giúp kho xưởng mát hơn, giúp tiết kiệm điện và góp phần giảm phát thải nhà kính, bảo vệ môi trường xanh sạch hơn.
Mức giá mua điện FIT2 chỉ áp dụng cho các hệ thống vận hành thương mại trước ngày 31/12/2020. Như vậy, chỉ còn 6 tháng để hưởng mức giá ưu đãi này, nếu doanh nghiệp do dự thì cơ hội sẽ vụt khỏi tầm tay.
Dựa trên kinh nghiệm cung cấp và lắp đặt điện mặt trời cho hơn 3.000 dự án trên toàn quốc với tổng công suất trên 50 MW, DAT sẽ mang lại hiệu quả và lợi ích cao cho doanh nghiệp.
Trong hơn 14 năm qua, đội ngũ kỹ sư của DAT Solar luôn tinh chọn những sản phẩm có chất lượng toàn cầu và nghiên cứu các giải pháp chuyên biệt để triển khai vào các hệ thống điện năng lượng mặt trời, đồng thời tính toán được các yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng nhằm mang lại hiệu quả ở mức cao nhất cho khách hàng. Hiện DAT Solar có hơn 350 nhân sự với 41% kỹ sư chuyên môn. Doanh nghiệp có 7.000 khách hàng, cung cấp và lắp đặt hơn 3.000 dự án hệ thống điện mặt trời với tổng công suất 50 MW được cung cấp, lắp đặt trên toàn quốc và 10MW pin mặt trời luôn có sẵn.
Theo VNExpress (Nguồn: DAT Solar)
Ossif với hệ thống mái nhà xưởng rộng lớn phục vụ cho nhu cầu làm điện mặt trời của quý khách hàng. Liên hệ ngay Hotline 0983 68 68 75 hoặc truy cập
Bất động sản công nghiệp sáng cửa đón hàng loạt “đại gia” công nghệ thế giới
– Một loạt “ông lớn” công nghệ của thế giới như Apple, LG, Panasonic… đang có kế hoạch lựa chọn Việt Nam là điểm đến cho chuỗi cung ứng, sản xuất hậu covid – 19. Mở cửa và có những chính sách hấp dẫn đón được làn sóng đầu tư này sẽ giúp bất động sản công nghiệp Việt Nam bùng nổ trong thời gian tới.
Bộ Công Thương trong báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2020, đã cho biết, một loạt tên tuổi lớn của ngành công nghệ trên thế giới đang rục rịch kế hoạch để chuyển chuỗi sản xuất, đầu tư sang Việt Nam. Một trong những cái tên nổi bật được nhắc đến như: LG, Panasonic, Foxconn – nhà cung ứng linh kiện cho Apple…
Đây là một tín hiệu đang mừng cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và lĩnh vực bất động sản công nghiệp nói riêng. Việc trở thành điểm sáng của thế giới trong cuộc chống dịch bệnh Covid – 19 đã giúp Việt Nam tạo dựng được hình ảnh của một điểm đến an toàn cho các tập đoàn kinh tế giai đoạn hậu Covid.
Mới đây, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa một bên là Việt Nam và một bên là Liên minh châu Âu và các nước thành viên Liên minh châu Âu (Hiệp định EVIPA). Nhiều chuyên gia nhận định, Hiệp định EVIPA sẽ là cú hích mạnh để thu hút nhà đầu tư châu Âu vào thị trường bất động sản Việt Nam.
Trong một báo cáo gần đây của Công ty CP Chứng khoán VNDirect, cũng đã đưa ra nhiều nhận định tươi sáng cho lĩnh vực bất động sản công nghiệp Việt Nam trong thời gian thới.
Cụ thể, VNDirect cho rằng, tác động mạnh mẽ của dịch bệnh Covid – 19 đã ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu, xuất hiện một làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng, sản xuất rời khỏi Trung Quốc – nơi khởi phát của dịch bệnh. Việt Nam với vị trí gần Trung Quốc có lực lượng lao động trẻ, chi phí thấp và hiệu ứng từ việc kiểm soát tốt dịch bệnh sẽ là một điểm đến nhiều tiềm năng.
Báo cáo thị trường bất động sản quý 2/2020 của JLL cho biết, mặc dù Covid-19 gây ra những khó khăn tạm thời cho các kế hoạch sắp tới của doanh nghiệp. Tuy nhiên đơn vị này đánh giá, bất động sản công nghiệp ở Việt Nam vẫn rất thu hút các nhà đầu tư.
Quý 2 vừa qua, giá thuê đất trung bình đã tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, đạt 106 USD/m2/chu kỳ thuê. Ngược lại, giá thuê nhà xưởng xây sẵn vẫn ổn định ở mức 3.5-5.0 USD/m2/tháng, do hợp đồng chỉ ngắn hặn 3-5 năm và khách thuê cũng dễ chịu tác động của đại dịch.
JLL dự báo, việc đàm phán cho thuê và các yêu cầu mới sẽ còn tiếp tục đình trệ cho đến hết năm 2020. Tuy nhiên, thị trường dự kiến sẽ nhanh chóng hồi phục ngay sau khi tình hình được kiểm soát. Với thành công của công tác phòng chống dịch Covid-19, nền tảng phát triển công nghiệp mạnh cùng với xu hướng tìm nguồn cung ứng đa dạng đang diễn ra hứa hẹn sẽ giúp đưa Việt Nam lên một tầm cao mới để cạnh tranh với các nước khác.
Tại Diễn đàn bất động sản Công nghiệp Việt Nam 2020 vừa được tổ chức giữa tháng 6/2020, ông Nguyễn Mạnh Hà – Phó chủ tịch Hiệp hội bất động sản Việt Nam nhận định, bất động sản công nghiệp là điểm sáng của thị trường nửa đầu năm 2020.
Theo ông Hà, sự tăng trưởng tốt của bất động sản công nghiệp là nhờ định hướng của Việt Nam trong xây dựng nền kinh tế tập trung vào xuất khẩu; việc xúc tiến thành lập các khu công nghiệp (KCN) và kinh tế trọng điểm; sự tích cực tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA); thế mạnh về lực lượng lao động trẻ, dồi dào, chi phí thấp.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối tháng 3/2020, cả nước có 335 khu công nghiệp (KCN) được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 97.800ha, trong đó có 260 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 68.700ha, và 75 KCN đang xây dựng với tổng diện tích khoảng 29.200ha. Tỷ lệ lấp đầy của các KCN đang hoạt động đạt khoảng 75,7%.
Theo Cafeland
BĐS công nghiệp có nơi tăng giá thuê lên đến 40% so với cùng kỳ năm ngoái
Theo CBRE, giá chào thuê trung bình cho đất công nghiệp Việt Nam tăng khoảng 10%, một vài khu công nghiệp ghi nhận giá thuê có thể tăng đến 40% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo các chuyên gia, BĐS công nghiệp được xem là điểm sáng trên thị trường BĐS. Đây cũng là loại hình duy nhất ghi nhận mức tăng giá ấn tượng trong các quý vừa qua.
Theo CBRE Việt Nam, cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc-Hoa Kỳ đã mang lại nhiều lợi ích cho thị trường BĐS công nghiệp Việt Nam do các nhà sản xuất bắt đầu di dời đến những thị trường tiềm năng khác. Giá chào thuê trung bình cho đất công nghiệp Việt Nam tăng khoảng 10%, một vài khu công nghiệp ghi nhận giá thuê có thể tăng đến 40% so với cùng kỳ năm ngoái.
Mặc dù thị trường này vẫn còn nhiều rào cản cho các nhà đầu tư như việc thiếu hụt quỹ đất công nghiệp và cơ sở hạ tầng ở những trí thuận lợi (bao gồm gần cảng biển, cảng hàng không, và khu đô thị lớn), ngành công nghiệp chế biến chế tạo và thị trường bất động sản công nghiệp của Việt Nam vẫn sẽ được hưởng lợi từ những thay đổi nhanh chóng của chuỗi cung ứng và thương mại hóa toàn cầu, giao thương với các quốc gia phát triển tiếp tục là động lực tăng trưởng chính của Việt Nam.
Mới đây, ngày 8/6, Quốc hội đã chính thức thông qua Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA). Theo các chuyên gia, hiệp định thương mại này sẽ góp phần rất lớn đến bức tranh kinh tế của Việt Nam, trong đó có TT BĐS công nghiệp. Cụ thể, nếu trướcđây yêu cầu thuê từ các công ty châu Âu còn hạn chế, tuy nhiên, với hiệp định EVFTA thì nhu cầu thuê bất động sản công nghiệp từ các công ty này sẽ tăng lên trong thời gian sắp tới. Nhu cầu thuê sẽ chủ yếu đến từ các nhóm ngành như máy móc và thiết bị (phụ tùng/linh kiện ô tô), thiết bị điện tử và may mặc. Song song đó, những thành quả trong công tác phòng chống dịch thời gian qua sẽ giúp Việt Nam tiếp tục đón làn sóng dịch chuyển của các công ty sản xuất từ Trung Quốc sang.
Các ngành nghề liên quan đến phụ tùng/linh kiện ô tô được kì vọng sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ EVFTA. Một loạt các nhà cung ứng cấp 1 đang mở rộng nhanh chóng tại thị trường Việt Nam, điển hình như Bosch, Schaeffler, Mitsubishi Motors, Yazaki, Daimler… Thị trường bất động sản công nghiệp cũng vì thế mà được dự đoán sẽ hoạt động rất tốt trong những năm tiếp theo nhờ vào sự hạn chế nguồn cung (đất, nhà xưởng xây sẵn và nhà kho) trong bối cảnh nhu cầu từ các công ty lắp ráp, phụ tùng và mua bán ô tô tăng nhanh.
Các cụm công nghiệp nằm gần cảng hoặc gần cụm sản xuất ô tô sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư mới. Các tỉnh phía Bắc như Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Phòng và Hải Dương được dự kiến sẽ trở thành tâm điểm đầu tư trong tương lai. Các tỉnh phía Nam như Long An và thành phố Vũng Tàu với lợi thế thuận tiện di chuyển đến cảng Hiệp Phước và Cái Mép cũng hứa hẹn có nhiều tiềm năng phát triển cho nhà đầu tư.
Theo JLL Việt Nam, trong quý 1/2020, miền Bắc thu hút phần lớn các tập đoàn lớn muốn đa dạng hóa danh mục sản xuất bên cạnh cơ sở tại Trung Quốc, với nền tảng cơ sở hạ tầng phát triển khá tốt và vị trí cận kề với Trung Quốc. Giá thuê đất khu vực này trung bình đạt 99 USD/m2/chu kỳ thuê, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Nhà xưởng xây sẵn – lựa chọn yêu thích của các doanh nghiệp vừa và nhỏ – vẫn giữ ở mức giá thuê ổn định dao động từ 4,0 – 5,0 USD/m2/tháng và nhiều khu công nghiệp được lấp đầy.
Tại khu vực miền Nam, số lượng yêu cầu thuê đất tăng cao và các chủ đầu tư đã trở nên tự tin hơn trong việc tăng giá thuê đất. Giá thuê đất trung bình trong quý 1/2020 tại miền Nam đạt 101 USD/m2/chu kỳ thuê, tăng 12,2% so với cùng kỳ. Trong đó, trong quý 2, đơn vị này ghi nhận được sự tự tin của chủ đầu tư trong việc nâng giá đất với trung bình 106 USD/m2/chu kỳ thuê, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Ngược lại, giá thuê nhà xưởng xây sẵn vẫn ổn định ở mức 3.5-5.0 USD/m2/tháng, do hợp đồng chỉ ngắn hạn 3-5 năm và khách thuê cũng dễ chịu tác động của đại dịch.
Theo CafeF
CHIA SẺ
Lắp đặt hệ thống điện trong nhà xưởng cần lưu ý những yếu tố nào?
Tất cả các nhà máy, nhà xưởng hay nhà kho có diện tích lớn hay nhỏ như thể nào đi chăng nữa thì việc thiết kế mạng điện nhà xưởng đóng vai trò hết sức quan trọng. Hệ thống điện lưới được vận hành liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động và đảm bảo tiến độ làm việc cho nhân viên. Vì thế khi hệ thống điện nhà máy đưa vào hoạt động thì cần phải lưu ý những yếu tố nào? Ossif đưa ra 4 yếu tố quan trọng trong việc thiết kế thi công hệ thống điện nhà xưởng để quý khách dễ dàng nhận diện.
1. Hệ thống nguồn chính
Tất cả các nhà máy, nhà xưởng hay nhà kho có diện tích lớn hay nhỏ như thể nào đi chăng nữa thì việc thiết kế mạng điện nhà xưởng đóng vai trò hết sức quan trọng. Hệ thống điện lưới được vận hành liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động và đảm bảo tiến độ làm việc cho nhân viên. Vì thế khi hệ thống điện nhà máy đưa vào hoạt động thì cần phải lưu ý những yếu tố nào? Ossif đưa ra 4 yếu tố quan trọng trong việc thiết kế thi công hệ thống điện nhà xưởng để quý khách dễ dàng nhận diện.
1. Hệ thống nguồn chính
Hệ thống cáp điện động lực trục chính xuất phát từ phía sau trạm biến áp, đấu nối vào MCCB đi vào tủ điện tổng phân phối chính cấp nguồn cho toàn bộ hệ thống. Cáp động lực chính có thể đi nổi (lắp trên trụ điện, giá đỡ…) hoặc âm dưới đất (thông qua ống nhựa PVC, ống kim loại…).
Hình minh họa. Nguồn internet
Trong quá trình thi công kéo cáp điện trục chính cần chú ý:
Đánh dấu các dây pha cẩn thận. Dùng băng keo màu Đỏ-Vàng-Xanh-Đen để ghi chú các Pha R, Pha S, Pha T, Pha trung tính N. Sắp xếp dây cáp điện theo thứ tự đều đặn, không để dây chồng chéo lẫn lộn trong đấu nối và bảo dưỡng, bảo trì. Cố định dây vào thang máng cáp bằng dây rút. Đảm bảo bề mặt dây cáp tiếp xúc trơn nhẵn, cẩn thận không làm trầy xước dây cáp trong lúc thi công. Trong trường hợp đường dây cáp được đặt trong ống nhựa PVC, các mối nối ống được dán keo chuyên dụng chống thấm khi đi ngầm dưới đất
2. Thang máng cáp
Để cố định hệ trục cáp điện, người ta dùng hệ thống giá đỡ gọi là thang máng cáp. Trong quá trình lắp đặt hệ thống điện nhà máy, từ nhà xưởng sản xuất, tòa nhà, văn phòng đến tất cả các nơi có bố trí thiết bị điện, đều cần phải sử dụng dây cáp điện. Nên ngoài việc bảo vệ an toàn cho hệ thống dây cáp điện, cho con người, thang máng cáp còn mang giá trị thẩm mỹ cho hệ thống.
Thang máng cáp điện tại nhà xưởng ossif
Các điểm cần lưu ý khi lắp đặt thang máng cáp:
Chọn ty treo phù hợp, cố định chắc chắn ở 2 đầu, thẳng hàng, cao độ bằng nhau. Khi lắp đặt thang máng cáp, chuyên viên kỹ thuật có tay nghề cao sẽ đo vẽ, cắt góc, lắp co đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và đảm bảo tính thẩm mỹ. Nối te thang máng cáp, phòng ngừa dây cáp rò điện.
3. Lắp đặt tủ điện công nghiệp
Tủ điện tổng là nơi đấu nối tập trung tất cả các trục cáp chính của toàn bộ hệ thống điện nhà máy thông qua các thiết bị đóng cắt, bảo vệ. húng thường được bố trí phân phối nhánh riêng biệt cho từng khu vực sản xuất nhằm thuận tiện trong thao tác, cũng như ngắt điện khi có sự cố xảy ra sẽ không gây ảnh hưởng đến các khu vực sản xuất khác.
*Lưu ý:
Nguồn điện sử dụng cho sản xuất luôn được yêu cầu phải liên tục, không thể gián đoạn lâu, vì vậy mà khi mất điện lưới thì thường sẽ có một nguồn điện dự phòng thay thế như máy phát điện. Chúng ta cần sử dụng tủ ATS để thuận tiện cho việc chuyển đổi giữa 2 nguồn điện nói trên.
CHIA SẺ
Ồ ạt cho thuê kho xưởng trong khu công nghiệp
Ðại dịch COVID-19 khiến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn. Nhà xưởng tại các khu công nghiệp (KCN) vốn hoạt động ổn định, giờ đây chủ sở hữu ồ ạt treo biển cho thuê.
Nhà xưởng cho thuê ngày càng nhiều
Thiếu nguyên liệu sản xuất, không có đơn hàng mới khiến hàng loạt công ty phải đóng cửa. Theo thống kê của Bộ KH&ĐT, 7 tháng đầu năm 2020 có tới 32.700 DN tạm ngừng kinh doanh, tăng 41,5% so với cùng kỳ năm trước và 21.800 DN ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể. Doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực như bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy; công nghiệp chế biến, chế tạo. Cùng với việc DN giải thể là hàng loạt các kho xưởng tại cụm công nghiệp, khu công nghiệp ở nhiều tỉnh, thành treo biển cho thuê.
Khảo sát của Tiền Phong cho thấy, tại các KCN ở Hà Nội như Quang Minh (Mê Linh), KCN ở Hà Nam, Bắc Ninh xuất hiện nhiều thông báo cho thuê nhà xưởng được dán mời gọi người đến thuê. Tại KCN Quang Minh (Mê Linh, Hà Nội), trên trục đường chính vào KCN, theo quan sát, Cty TNHH Dược phẩm Phúc Hưng và nhiều công ty khác đã treo biển cho thuê kho xưởng.
Vốn đầu tư tại các dự án FDI ngày càng giảm cũng là một trong những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư tìm đến thuê kho xưởng có sẵn để tiết kiệm chi phí.Thậm chí, nhiều dự án FDI thuê kho xưởng sẵn có này, cạnh tranh với cả DN nội.
Tại KCN Châu Sơn (Hà Nam), một chủ DN có nhà xưởng cho thuê cho biết, nhà xưởng cách Hà Nội 58km, mất khoảng 1 giờ đi xe, cách cảng Hải Phòng 100km, cách KCN Đồng Văn khoảng 5 km, cách cao tốc Hà Nội- Ninh Bình 1,5km. Giá thuê nhà xưởng 3,3 USD/m2/tháng. Nhà xưởng tiêu chuẩn công nghiệp, tôn lạnh, sàn bê tông chịu tải 3 tấn/m2, có sẵn hệ thống phòng cháy chữa cháy, có hệ thống điện 3 pha công suất 200 kV. Nhà xưởng có đầy đủ các giấy tờ pháp lý, phù hợp cho công ty nước ngoài, công ty chế xuất.
“Hệ thống đường nội bộ được thiết kế hợp lý đảm bảo cho các phương tiện đến các nhà máy dễ dàng và thuận tiện. Đường khu trung tâm rộng 32m, đường nhánh rộng 23m. Hệ thống đèn điện chiếu sáng được lắp đặt dọc theo các tuyến đường. Mạng lưới điện được cung cấp dọc theo các đường giao thông nội bộ trong KCN”, anh Đỗ Quang Trung, chủ một nhà xưởng cho thuê tại KCN cho biết.
Tại Nam Định hàng loạt đơn vị quảng cáo cho thuê nhà xưởng tại KCN Mỹ Trung. Khu nhà xưởng có diện tích 13.800 m2, gồm 6 xưởng nhỏ.Nhà xưởng có đầy đủ giấy tờ pháp lý cho công ty nước ngoài thuê, có trạm điện, nước sạch, nước thải đến tận xưởng; giá cho thuê 2 USD/m2/tháng.
Theo dự báo của Công ty Nghiên cứu và Tư vấn CBRE, cuối năm 2020, tổng nguồn cung của nhà máy và nhà kho xây dựng sẵn ở miền Bắc sẽ đạt khoảng 2 triệu m2, tăng hơn 25% so với năm 2019. Tổng nguồn cung của nhà máy xây sẵn ở miền Nam sẽ là 2,7 triệu m2, tăng 28% so với năm 2019. Sau dịch COVID-19, giá thuê kho trung bình sẽ tăng từ 4% đến 11% so với cùng kỳ năm ngoái.
“Các nhà xưởng được xây dựng sẵn để cho thuê ngày càng nhiều hơn.Gần đây, nhiều chủ đầu tư đã phát triển các nhà máy, nhà kho xây dựng sẵn để tối đa hóa hiệu quả sử dụng đất và phục vụ cho toàn bộ nhu cầu”, CBRE nhận định.
Theo CBRE, để thu hút khách, các nhà máy xây dựng sẵn hiện nay đều đã tích hợp công nghệ 4.0 để mang lại thuận lợi nhiều hơn cho người thuê. Đây là xu hướng mới đang nổi lên trong thời gian gần đây. Gói dịch vụ bao gồm pháp lý, nguồn nhân lực và hệ thống kế toán miễn phí để khách hàng có thể xin giấy phép ngay cả khi họ ở nước ngoài.
Dự án FDI nhỏ tìm đến nhà xưởng thuê sẵn
Chính sách phát triển KCN, khu chế xuất trên cả nước đã được kích hoạt, nhằm “lót ổ” để đón làn sóng đầu tư đang dịch chuyển trên thế giới. Đặc biệt, nhiều KCN mới được xây dựng với xu hướng đón các DN FDI “đại bàng”.Tuy nhiên, một thực tế đáng báo động là quy mô vốn trung bình của dự án FDI vào Việt Nam ngày càng teo tóp.
Theo thống kê của Bộ KH&ĐT, vốn trung bình dự án FDI đăng ký mới năm 2017 đạt 13,8 triệu USD/dự án; năm 2018 giảm xuống còn 5,87 triệu USD/dự án và năm 2019 giảm xuống 4,13 triệu USD/dự án. Nếu không tính dự án điện gió tại Bạc Liêu, vốn đăng ký bình quân của dự án FDI trong 7 tháng đầu năm 2020 chỉ đạt 3,37 triệu USD/dự án.
Theo Cafef
Thương chiến và Covid-19 khép lại thời kỳ Trung Quốc là “công xưởng thế giới”, Việt Nam đi đầu trong nhóm điểm đến mới
Vì chiến tranh thương mại, các công ty Mỹ đang rời Trung Quốc, và chắc chắn con số này sẽ còn tăng do đại dịch Covid-19. Tác giả Kenneth Rapoza đánh giá trong bài phân tích trên Forbes hồi đầu tháng 4, nói rằng sự toàn cầu hóa với Trung Quốc làm trung tâm đang trở nên “lỗi thời”.
Tác giả Kenneth Rapoza đánh giá trong bài phân tích trên Forbes hồi đầu tháng 4, nói rằng sự toàn cầu hóa với Trung Quốc làm trung tâm đang trở nên “lỗi thời”.
Thương chiến và Covid-19 là hai nhân tố xoay chuyển tình hình
Công ty tư vấn sản xuất toàn cầu Kearney, Mỹ, đã công bố chỉ số Reshoring Index – chỉ số đo lường quá trình chuyển dịch doanh nghiệp hoặc một phần doanh nghiệp có trụ sở tại một quốc gia khác trở về quốc gia ban đầu – thường niên lần thứ 7, cho thấy “màn đảo ngược đầy kịch tính” của xu hướng trong 5 năm, khi sản xuất trong nước của Mỹ năm 2019 chiếm tỉ trọng lớn hơn đáng kể so với 14 nhà xuất khẩu châu Á khác được theo dõi trong nghiên cứu.
Chỉ số Reshoring so sánh tổng sản lượng xuất ra của Mỹ với số liệu nhập khẩu từ 14 nền kinh tế có chi phí thấp ở Châu Á.
Tổng giá trị của tất cả hàng nhập khẩu từ 14 quốc gia/vùng lãnh thổ châu Á đã giảm từ 816 tỷ USD năm 2018 xuống còn 757 tỷ USD vào năm 2019, giảm 7% tại thời điểm tăng trưởng kinh tế vững chắc của Mỹ.
Theo Kearney, sự co lại hầu như chỉ do sự suy giảm trong các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc – giảm mạnh nhất ở mức 17% do thuế.
Các công ty Mỹ trong năm ngoái cũng đã chủ động xem lại về chuỗi cung ứng của mình, hoặc là thuyết phục các đối tác phía Trung Quốc chuyển địa điểm về Đông Nam Á để tránh thuế quan, hoặc là từ chối hoàn toàn nguồn cung từ Trung Quốc.
“Ba thập kỷ trước, các nhà sản xuất Mỹ bắt đầu sản xuất và tìm nguồn cung ứng ở Trung Quốc chỉ vì một lý do: Chi phí. Chiến tranh thương mại đã mang đến một khía cạnh khác cho “phương trình” thêm đầy đủ và cân bằng hơn: Rủi ro. Thuế và mối đe dọa của hàng nhập khẩu Trung Quốc bị gián đoạn khiến các công ty phải cân nhắc sự đảm bảo của nguồn cung đi kèm với chi phí. Covid-19 mang tới một yếu tố thứ ba đáng chú ý: Khả năng mau phục hồi – khả năng có thể dự đoán và thích ứng với những cú shock mang tính hệ thống, không lường trước được” – Patrick Van den Bossche, đối tác của Kearney và đồng tác giả của báo cáo dài 19 trang đang, chỉ ra.
Những quốc gia hưởng lợi chính từ việc này là những quốc gia nhỏ hơn ở khu vực Đông Nam Á, dẫn đầu là Việt Nam. Với việc Hiệp định Thương mại tự do Mỹ-Mexico-Canada (USMCA) được hoàn tất năm 2019, quốc gia Trung Mỹ Mexico cũng trở thành thành một nguồn cung ứng được ưa thích.
Các công ty Mỹ có xu hướng rời khỏi Trung Quốc nhằm phân tán rủi ro bị phụ thuộc vào “công xưởng thế giới” này (Ảnh minh họa: Reuters)
Những ngày Trung Quốc là trung tâm sản xuất đã kết thúc
Năm 2020, chiến tranh thương mại dường như đang tạm dừng, nhưng là để nhường chỗ cho cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu, khởi phát từ vùng dịch Covid-19 đầu tiên tại tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.
Virus corona chủng mới (SARS-Cov-2) gây dịch Covid-19 đã đóng cửa các nền kinh tế và khiến nhiều chính phủ lao đao. Các doanh nghiệp đã không thể có được nguồn cung trực tuyến trong tháng Hai và đầu tháng Ba do việc đóng cửa các nhà máy ở Trung Quốc, các công ty ở Mỹ bị đình trệ.
Khi Trung Quốc bắt đầu đứng dậy và “chạy cho kịp” thì Mỹ lại trở thành tâm đại dịch Covid-19. Ngay cả khi Trung Quốc đang dần dần được chữa lành thì Mỹ vẫn đang mắc kẹt trong cơn đại dịch chết chóc.
Theo báo cáo của Kearney, toàn bộ mức thiệt hại xã hội và kinh tế mà đại dịch có thể gây ra vẫn chưa được hoàn toàn sáng tỏ. Nhưng cho dù kết quả thế nào, việc trở lại nguyên trạng của thương mại Trung Quốc như trước đại dịch là không thể.
Kearney dự đoán các công ty “sẽ buộc phải có những hành động xa hơn trong việc xem xét lại các chiến lược cung ứng, [và có thể là] toàn chuỗi cung ứng của họ. “
Cụ thể, các tác giả trong báo cáo của Kearney đã viết rằng họ hy vọng từ đại dịch này, các công ty sẽ ngày càng có xu hướng phân tán rủi ro thay vì chỉ dựa hoàn toàn vào Trung Quốc.
Trung Quốc hiện là nguồn cung cấp chủ yếu ibuprofen (thuốc), quần áo phòng hộ, găng tay cao su, khẩu trang y tế, máy thở và cả giấy vệ sinh,… cho các nước phòng chống dịch. Các thượng nghị sĩ Josh Hawley và Tom Cotton của đảng Cộng hòa Mỹ đã nêu lên vấn đề làm thế nào để điều này không trở thành một vấn đề về an ninh quốc gia.
Mối đe dọa đến từ sự tức giận chính trị đối với Trung Quốc, đấy là còn chưa kể những đại dịch trong tương lai khiến các công ty sẽ muốn bảo vệ chuỗi cung ứng của họ bằng cách phân tán rủi ro.
Điều đó không có nghĩa là Trung Quốc sẽ hoàn toàn bị cô lập. Nó chỉ có nghĩa là những ngày mà Trung Quốc là trung tâm sản xuất của phương Tây đã kết thúc.
Công nhân làm việc trong nhà máy sản xuất đèn LED ở thành phố Đông Hoản, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Khoảng 70% bóng đèn LED trên thế giới được sản xuất tại Trung Quốc (Ảnh: Getty)
Việt Nam là điểm đến mới tại châu Á
Chỉ số đa dạng hóa Trung Quốc (CDI) của Kearney theo dõi sự thay đổi trong việc nhập khẩu của Mỹ từ Trung Quốc và các nền kinh tế châu Á khác trong danh sách. Trung Quốc vẫn đang ở vị trí đứng đầu nhưng ngày càng mất đi “miếng bánh” của mình dưới thời tổng thống Mỹ Donald Trump.
Năm 2013, năm cơ sở của CDI, Trung Quốc nắm giữ 67% tất cả hàng hóa sản xuất có nguồn gốc châu Á tại Mỹ. Chỉ số này đến Quý II/2019 đã giảm xuống 56%, tức là giảm hơn 1.000 điểm cơ bản.
Trong số 31 tỷ USD giá trị hàng nhập khẩu của Mỹ đã rời khỏi tay Trung Quốc, khoảng 46% đã được Việt Nam hấp thụ, đôi khi bởi cùng các nhà cung cấp Trung Quốc đã rời khỏi Đại lục. Theo Forbes, Việt Nam đã xuất khẩu thêm 14 tỷ USD hàng hóa sang Mỹ vào năm 2019 so với năm 2018 nhờ sự thay đổi đó.
Mexico là “Trung Quốc của châu Mỹ”
Kearney giới thiệu Tỷ lệ thương mại gần-đến-xa (NTFR) trong năm nay. Nó theo dõi sự chuyển động của hàng nhập khẩu của Mỹ đối với việc sản xuất gần bờ ở Mexico.
Kể từ năm 2013, NTFR đã dao động ổn định khoảng 36% và 38% – nghĩa là mỗi USD hàng hóa sản xuất của Mỹ từ châu Á, có khoảng 37 cent giá trị của hàng nhập khẩu đến từ Mexico.
Điều đó đã thay đổi với USMCA.
Trên cơ sở giá trị đồng USD, tổng giá trị hàng sản xuất nhập khẩu từ Mexico sang Mỹ đã tăng 10% trong giai đoạn 2017-2018, từ 278 tỷ USD lên 307 tỷ USD, và thêm 4% từ năm 2018 đến 2019, với tổng giá trị nhập khẩu là 320 tỷ USD – dựa trên báo cáo của Kearney.
“Cánh cửa cho những ‘kẻ muốn nổi dậy’ rõ ràng đã được mở ra bởi các tranh chấp thương mại Mỹ – Trung, vì lợi ích của các nước này chủ yếu nằm ở các loại sản phẩm bị ảnh hưởng bởi thuế quan,” Yuri Castano, nhà quản lý tại Kearney và đồng tác giả của nghiên cứu cho biết.
“Rõ ràng, chiến tranh thương mại đã khiến các công ty Mỹ bắt đầu suy nghĩ và định hình lại mạng lưới cung ứng của họ.”
Theo CafeF
BẠN ĐÃ ĐĂNG KÝ THÀNH CÔNG
Thông tin của quý khách đã được tiếp nhận và trực tiếp gửi về bộ phận liên quan để xử lý.Ossif sẽ phản hồi cho quý khách sớm nhất!Cảm ơn quý khách!